TỪ ĐIỂN CHÚ GIẢI
GREAUDSTUDIO FILMS
Greaudstudio Films INC chịu trách nhiệm pháp lý về việc sản xuất phim The Snorks: buổi hòa nhạc cho các sinh vật.
Greaudstudio Films INC là một đơn vị doanh nghiệp của Loris Gréaud / GREAUDSTUDIO. Đơn vị này hoàn toàn dành cho sản xuất, thực hiện và hậu kì sản xuất những phim của Loris Gréaud. Greaudstudio Films INC cộng tác cùng thời điểm với những xuất bản khác và hiện nay đang thực hiện hai dự án mới dự kiến ra mắt năm 2013
DAVID LYNCH
David Lynch cùng tham gia thuyết minh cho bộ phim.
Sinh tại Missoula, Montana năm 1946
Ông là một Eagle Scout. (một chức danh trọng vọng trong hoạt động Hường đạo ở Hoa Kỳ)
CHARLOTTE RAMPLING
Charlotte Rampling là người đọc thuyết minh cho phim The Snorks.
Charlotte Rampling sinh tại Sturmer, nước Anh năm 1946.
Rampling từng là người mẫu trước khi tham gia các bộ phim của đạo diễn Richard Lester The Knack và How to Get It (1965), sau đó cô tham gia trong Georgy Girl (1966), và Les damnés (1969) của đạo diễn Luchino Visconti . Nhưng bộ phim đánh bóng tên tuổi của cô chính là Portier de nuit (1974) của nữ đạo diễn Liliana Cavani, trong phim này, Rampling vào vai một phụ nữ sống sót trở về từ một trại tập trung của Đức quốc xã, và rồi cô gặp lại người lính Đức quốc xã (Dirk Bogare) đã tra tấn mình suốt thời gian bị giam trong trại tập trung. Năm 1974, Rampling cùng vào vai chính với Sean Connery trong Zardoz (1974), một bộ phim khoa học viễn tưởng của đạo diễn John Boorman, sau đó Rampling đóng chung với Robert Mitchum trong Adieu ma jolie (1975), với Woody Allen trong bộ phim do chính ông đạo diễn – Stardust Memories (1980), và diễn cùng Paul Newman trong The Verdict (1982) của đạo diễn Sidney Lumet. Rampling là một nữ diễn viên khát khao thể hiện những vai diễn táo bạo và sâu sắc, và có lẽ khi vào vai Margaret, một phụ nữ đem lòng yêu một con tinh tinh, trong bộ phim hài Max mon amour (1986) của đạo diễn Nagisa Ôshima, cô đã có được một vai diễn để đời.
LORIS GREAUD
Loris Gréaud đã “thai nghén”, phác thảo, sản xuất, ủy thác, soạn nhạc và quay phim toàn bộ dự án: “The Snorks: buổi hòa nhạc cho các sinh vật”.
Loris Gréaud là một nghệ sỹ nổi bật trong nền nghệ thuật thứ Bảy (nghệ thuật điện ảnh) toàn cầu đã 10 năm nay. Những dự án dài hạn và những kinh nghiệm ý niệm của ông ấy luôn được chú ý ở khía cạnh vừa lập dị vừa thực tiễn. Quả nhiên công việc của Loris Gréaud khảo sát tỉ mỉ nhiều lĩnh vực khác nhau (ngôn ngữ, âm nhạc, điện ảnh, khoa học, đồ án thiết kế tổng hợp, kiến trúc vân vân) kết hợp giữa những thử nghiệm và những dự án độc nhất. Những bộ phim, những cuộc triển lãm và công việc của ông ấy nhìn chung là những chuyển đổi thi vị mang đến từ sự trừu tượng loạn giác.
MK2 DIFFUSION
MK2 will ensure the theatrical release of the movie The Snorks: a concert for creatures on French territory.
Created in 1974, MK2 Diffusion commercializes MK2 catalogue on French territory (about 500 films of 30 different nationalities). MK2 Diffusion also exhibits in-house productions or films bought by the group (about 8-12 per year).
2007: Paranoïd Park by Gus Van Sant, A casa nostra by Francesca Comencini, 24 Measures by Jalil Lespert, Made in Jamaïca by Jérôme Laperrousaz…2008: Be Happy by Mike Leigh, Fly me to the Moon by Ben Stassen, Summer Hours by Olivier Assayas, Hunger by Steve McQueen, Rumba by Dominique Abel, Fiona Gordon & Bruno Romy…2009: The True Story of Puss’N Boots by Jérôme Deschamps, Macha Makéïeff & Pascal Harold, Fish Tank by Andrea Arnold, Henri-Georges Clouzot’s Inferno by Serge Bromberg & Ruxandra Médréa, The Misfortunates by Felix Von Groeningen…2010: Certified Copy by Abbas Kiarostami, When you’re strange by Tom DiCillo, Carlos by Olivier Assayas, Heartbeats by Xavier Dolan, Black Venus by Abdellatif Kechiche…2011: Beginners by Mike Mills, The Fairy by Abel, Gordon & Romy, Metropolis by Fritz Lang, Shame by Steve McQueen…
ANTI-POP CONSORTIUM
Trong khuôn khổ dự án The Snorks, nhóm Anti-Pop Consortium đã thực hiện phần nhạc gốc của phim và buổi hòa nhạc dành cho những sinh vật. Anti-Pop Consortium sẽ trình diễn trên sân khấu trong Chuyến du ngoạn Snorks.
Anti-Pop Consortium là một nhóm nhạc hip-hop luân phiên đã cho ra mắt hai album và nhiều đĩa đơn. Nhóm được thành lập năm 1997 khi Bean, High Priest, M.Sayyid và nhà sản xuất Earl Blaize gặp nhau trong khuôn khổ cuộc họp phê duyệt tại New York. Họ luôn được nhận biết bằng dòng chảy liên tục của mình, bằng phối hợp ngôn ngữ thiếu sự tôn trọng và táo bạo, sự khéo léo đưa ra ẩn ý đằng sau những cụm từ theo bề ngoài khó hiểu nhất. Nếu báo chí âm nhạc công chúng đôi khi ít chào đón họ, những thành viên của Anti-Pop Consortium ngày nay nổi tiếng toàn cầu vì khả năng sáng tạo và những sản phẩm điện tử thực nghiệm của họ.
CHI NHÁNH ZOOBOOK
Chi nhánh Zoobook đảm nhiệm Chuyến du ngoạn Snorks.
Chi nhánh Zoobook làm việc hơn 10 năm cho nhóm người New-York ANTI-Pop CONSORTIUM, tiên phong cho loại hình “hip-hop trừu tượng”, “hip hop tiên phong”. Chi nhánh vận hành để những nghệ sỹ thay mặt cho chi nhánh với sự tự nguyện tìm tòi, ham khám phá và ham hiểu biết để gạt đi những ranh giới.
AVATAR STUDIO
Trong khuôn khổ dự án The Snorks: buổi hòa nhạc cho các sinh vật, Avatar Studio đã chào mời hai đợt ghi âm của âm nhạc Anti-Pop Consortium.
Nhiều nghệ sỹ, nhà sản xuất và kỹ sư trong số những người có uy lực nhất đã vượt qua các cánh cửa của Avatar Studios. Ta tính đến đặc biệt là Bruce Springsteen, The Rolling Stones, David Bowie hay Roxy Music nữa. Madona cũng ở tại đó trong thời gian thâu “I lie a virgin”. Gần đây nhất, những nghệ sỹ như Paul MacCarthney, Paul Simon John Mayer, Trey Anastasio, Muse, Peter Cincotti, Donald Fagen, Norah Jones, My Morning Jacket và Dream theater đã thâu âm dự án của họ tại Avatar.
Xét về âm nhạc học, hiển nhiên phải tính đến studio Avatar giữa những studio tinh vi nhất thế giới. Có dịch vụ quản lý tại chỗ, từ nay họ có thể đảm nhận một dự án từ khâu tiền sản xuất cho đến quản lý sản xuất. Mặt khác, Studio Avatar nhiệt tình nâng đỡ những nghệ sỹ trẻ và những nhóm chưa có tên tuổi hay những nhóm sản xuất non trẻ và những kỹ sư đầy hứa hẹn.
Đặc tính thực nghiệm và những không gian được sắp xếp hoàn hảo bởi studios Avatar đã làm cho nó thành một nơi sáng tạo kín đáo, duy nhất và đặc quyền. Môi trường vo song này đã thu hút và tiếp tục thu hút nền âm nhạc bậc nhất thế giới.
THOMAS BOUTOUX
Thomas Boutoux là tác giả của những bài văn các nhà kể chuyện.
Thomas Boutoux là nhà văn, người quản lý và xuất bản, sống và làm việc tại Paris.Với tư cách là nhà văn, ông ta đã cộng tác với những công trình, dự án triển lãm và xuất bản của Loris Gréaud từ năm 2004. Ông ta hòan tòan tham dự vào dự án The Eye of the duck, Silence goes more quickly when played backward, và End Extend.
CLAIRE NOUVIAN
Claire Nouvian đã tài trợ cho sự trình chiếu buổi hòa nhạc cho các sinh vật dưới biển sâu -3000m.
Claire Nouvian là chủ tịch và là người sáng lập tổ chức phi lợi nhuận BLOOM (www.bloomassociation.org) đặt tại Paris và Hong Kong. Những nghiên cứu và hoạt động của cô liên quan đến đánh bắt cá ở nước sâu và những thói quen săn mồi của cá mập. Tại Châu Á, BLOOM hướng đến viẹc cải thiện bảo tồn số lượng cá mập bằng cách ngăn cản những xí nghiệp đóng tại địa phương phục vụ súp vây cá mập trong các buổi tiệc cưới hoặc tiệc công ty. Tại Châu Âu, Claire Nouvian đã thực hiện những cuộc thăm dò điều tra kỹ lưỡng những xí nghiệp đánh bắt cá biển sâu tại Pháp và lộ ra rằng mặc dù có sự trợ cấp cộng đồng thì 3 chủ quản tàu biển sâu vẫn trong tình trạng thiếu hụt kéo dài.
Trước khi tham gia bảo vệ môi trường, Claire Nouvian đã làm việc về sản xuất truyền hình và khoa học. Cô đã lưu lại dài ngày trong những khu rừng rậm châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh cũng như đã bị mắc 2 căn bệnh nhiệt đới và vì vậy buộc phải dừng việc quay phim lại. Thời gian dưỡng bệnh cho phép cô thực hiện cuốn sách của mình (Đại dương sâu thẳm, Fayard 2006) và dự kiến một cuộc triển lãm tại Viện Bảo tàng Quốc gia Vạn vật học (Đại dương sâu thẳm, 2007). Claire Nouvian cũng theo đuổi những dự án giáo dục môi trường biển, nhất là cuộc thi trò chơi « 2000m dưới biển ». (www.atomes-crochus.org/abysses/) và buổi biểu diễn rối âm nhạc « Tin tức mới nhất về biển cả » (http://dernieresnouvellesdelamer.org/). Ngòai ra cô cũng tham dự vào nhiều trường đại học của Pháp và nước ngoài.
LIDO / MICHEL ANDRE
Là một phần của Snorks, Michel ANDRÉ đã làm cho có thể thực hiện được buổi hòa nhạc cho các sinh vật 3000 mét dưới mực nước biển.
Phòng thí nghiệm Âm học ứng dụng của Đại học Kỹ thuật Catalonia (Barcelona) đang tiến hành một chương trình nghiên cứu có tính quốc tế mang tên “Lắng nghe Môi trường của Đáy biển” (LIDO) nhằm ứng dụng và cải tiến những kỹ thuật theo dõi âm thanh thụ động trong tự nhiên (âm thanh của cơn mưa, của sóng biển, của động đất), âm thanh của sinh vật (tiếng của cá voi, của các loài cá, của động vật giáp xác) và âm thanh nhân tạo (âm thanh do con người tạo ra) để ứng dụng vào hoạt động truyền âm thanh tại các trạm dưới đáy biển. Chương trình LIDO đưa ra được những giải pháp hỗ trợ sử dụng kỹ thuật tiên tiến có tính tích hợp, và những giải pháp này đang được một số chính phủ sử dụng, những giải pháp đó cũng đang là lựa chọn của nền công nghiệp hàng hải xa bờ (xem thêm tại http://sonsetc.com).
Phần mềm LIDO có chứa một số thuật toán độc lập, những thuật toán này xử lý các luồng dữ liệu có thời gian thực. Mỗi thuật toán chuyên làm một nhiệm vụ, ví dụ như nhiệm vụ phát hiện âm thanh, đánh giá âm thanh, phân loại, hoặc định vị nguồn gốc âm thanh. Nhờ những dữ liệu thu được, phần mềm LIDO sẽ đặc trưng hóa và khoanh vùng từng luồng âm thanh, thiết lập các ảnh phổ để hiển thị âm thanh, cũng như nén thành file để nhiều người có thể truy cập trực tuyến.
BẢO TÀNG HỘI CHỢ NGHỆ THUẬT
Bảo tàng Hội chợ Nghệ thuật tiếp nhận những cảnh quay của Charlotte Rampling.
Pavillon de Bercy tiếp nhận 4 nơi khác nhau :
Le Musée des Arts Forains
Le Théâtre du Merveilleux
Les Salons Vénitiens
Le Théâtre de Verdure
Những nơi này mang tên chủ đề đặc biệt như sau : Hội chợ, lễ hội Carnaval, bảo tàng những điều kỳ dị, vườn kỳ lạ.
Những nơi này tiếp nhận hơn 200.000 người riêng lẻ hoặc theo nhóm mỗi năm .
Những người tham quan cần được hướng dẫn vì bảo tàng sống động này cho phép dùng cần quay do động vật kéo và vì nội dung không phụ đề, không có kính ngoài.
Bộ sưu tập lớn nhất Âu châu được biểu diễn nhờ sử dụng kỹ thuật âm thanh và hình ảnh chất lượng đỉnh. Nghệ thuật phối cảnh này phối hợp giữa truyền thống và mới lạ, vĩnh cửu và phù du ngắn ngủi, là « nhãn hiệu chế tạo » của nơi chốn.
http://www.pavillons-de-bercy.com/
TDIC
Thành lập năm 2006, Công ty Phát Triển và đầu tư du lịch (TDIC) là một doanh nghiệp chuyên về phát triển du lịch cao cấp tại Abu Dhabi, sáng lập Liên hiệp những Thủ lĩnh Hồi giáo Ảrập, và đóng góp then chốt vào sự phát triển kinh tế và văn hóa. Vả lại doanh nghiệp là nguồn gốc của những dự án nổi tiếng nhất của Abu Dhabi và toàn bộ những dự án Saadiyat Island, nối kết các cơ quan văn hóa hàng đầu giữa những cơ quan như Zayed National Museum, Louvre Abu Dhabi, Guggenheim Abu Dhabi Museum, Performing Arts Center và Maritime Museum.
NGHỆ THUẬT, NÓI CHUYỆN VÀ CẢM GIÁC
Nghệ thuật, nói chuyện và cảm giác Abu Dhabi là một cuộc hẹn văn hóa mới được hiểu như một “cuộc triển lãm-hội nghị” và người giám sát là Fabrice Bousteau. Trong vòng 3 tiếng, chương trình đã tập hợp gần 30 người liên quan nổi tiếng khắp thế giới, những cuộc thảo luận liên đới, những thành tích, âm nhạc, triết học và trình chiếu truyền hình thành một thực nghiệm nghệ thuật duy nhất.
http://www.abudhabiartfair.ae/about-abu-dhabi-art/overview/Art-Talks-and-Sensations
PERFORMA
Roselee Goldbert quản lý đoạn phim quảng cáo Snorks: trình chiếu pháo hoa thực hiện tại Abu Dhabi trên màn ảnh tại quảng trường Times.
Performa là một tổ chức với mục đích phi lợi nhuận và ca tụng những bộ môn nghệ thuật. Thành lập bởi Roselee Goldberg vào năm 2004, nó cống hiến cho sự nghiên cứu tỉ mỉ về vai trò phê bình của sự trình diễn sống trong lịch sử nghệ thuật của thế kỉ 20 và khuyến khích những phát triển trình diễn của thế kỷ 21. Nhà xuất bản Performa 09, lần thứ ba của nghệ thuật đương đại hai năm một lần đã diễn ra tại New York từ đầu tháng 11 đến 22 tháng 11 năm 2009. Ba tuần lễ hội này đã diễn ra những dự án đặc biệt của Performa và một chương trình trình diễn đặc biệt những triển lãm, những diễn đàn giáo dục, tham luận nghệ thuật công chúng, xuất bản, trình chiếu phim, cũng như phổ biến trên đài radio, tivi và mạng internet. Với sự tài trợ của hơn 60 cơ quan nghệ thuật và một loạt trình diễn công khai và riêng tư trong toàn thành phố, Performa 09 đã cho thấy sự làm việc của hơn một trăm nghệ sỹ thế giới. Được giới thiệu cùng những quan điểm của những nhà quản lý khác nhau, lễ hội sinh động này, theo kỹ năng và được hiểu như một phòng thí nghiệm phản chiếu thực sự, được thể hiện như một chất xúc tác nhằm vào văn hóa và tương lai của New York.
FRANCOIS MONTEL/ NHÓM F
François Montel đã nghĩ ra và thiết kế những biến cố kỹ thuật hỏa pháo trên dải nước của Emirate Palace.
Nhóm F là một công ty nổi tiếng toàn thế giới vì khả năng xây dựng những sự kiện nổi tiếng có tầm văn hóa quan trọng.
Chuyên gia kỹ thuật hỏa pháo và những công cụ thuộc biến cố phục vụ cho nội dung nghệ thuật cho phép nhóm F thực hiện những công trình gắn liền công chúng.
Kinh nghiệm tích lũy bởi nhóm F trong những lĩnh vực biến cố toàn cầu (Nghi lễ Thế vận hội, nghi lễ các quốc gia, lễ khánh thành) và cho ra đời những công trình sân khấu cho các lễ hội nghệ thuật toàn cầu cho phép công ty tạo ra mới liên hệ cần thiết giữa một sự kiện giao tiếp lớn và một sự thực thi chào mừng nghệ thuật phi họa.
TIMES SQUARE ALLIANCE
Times Square Alliance đã cho phép trình chiếu những hình ảnh của pháo hoa Abu Dhabi trên màn hình của Times Square.
Times Square Alliance, thành lập năm 1992, phát triển và xúc tiến bằng sự sáng tạo cùng năng lượng để làm nơi này thực sự thành một biểu tượng của giải trí, văn hóa và đời sống thành thị trong suốt chiều dài của thế kỷ này.
Hơn nữa những dịch vụ cổ điển lân cận được bảo đảm bởi những cảnh sát bảo vệ an toàn công cộng và lành mạnh hóa , Alliance xúc tiến chợ địa phương, khuyến khích phát triển kinh tế và những sáng kiến cộng đồng , hợp tác tổ chức những sự kiện trọng đại của Times Square giữa những buổi lễ hàng năm mừng Năm mới và sự họat động của Broadway, quản lý Trung tâm Times Square Visitors, và bảo vệ những người bị cai trị với thỏa thuận chính trị cộng đồng, cải thiện chất lượng cuộc sống. Chu vi Alliance trải rộng từ đường thứ 40 đến 53 giữa đại lộ thứ 06 và thứ 08, gồm Nhà hàng Row (đường thứ 46 giữa đại lộ thứ 08 và thứ 09).
ANTARES
Trong khuôn khổ phim The Snorks, Antare có thể tuyên truyền buổi hòa nhạc và thu âm phản ứng của những vật phát quang sinh học theo nhạc được sáng tác đặc biệt cho chúng.
Công tác ANTARES đã xây bộ dò sóng kích cỡ lớn dưới đáy biển Địa Trung Hải. Bộ dò sóng này quan sát ánh sáng Tchérenkov sản sinh ra từ những muon phát sinh từ sự tương tác neutrinos ở năng lượng cao trong vỏ trái đất.
Sự quan sát neutrinos năng lượng cao cho ta cái nhìn mới trên Vũ trụ. Mục đích đầu tiên của thí nghiệm là sử dụng neutrinos để nghiên cứu những cơ cấu nhanh dần của hạ nguyên tử đặc biệt trong khách thể có năng lượng nhất của Vũ Trụ: hạt nhân năng động thiên hà, bước nhảy gamma, vi chuẩn tinh…. Những khách thể này có thể sản sinh bức xạ vũ trụ bắn thường xuyên khí quyển trái đất và nguồn gốc của nó vẫn chưa được biết.
MIT SEA GRANT COLLEGE
Trong khuôn khổ dự án The Snorks, MIT Sea Grant College đã thực hiện một loạt thí nghiệm trên phản ứng tần số âm thanh lặp lại của những sinh vật đơn bào. Học viện công nghệ Massachusetts được thiếp lập dưới tên Sea Grant College năm 1970: là trường nghiên cứu chuyên sâu về thể loại này. Những chương trình nghiên cứu tỉ mỉ, đặc biệt về cảm ứng, và những dự án giáo dục nhằm thiết lập giải pháp đương đại để nghiên cứu và bảo tồn vùng ven biển.
MIT Sea Grant hỗ trợ những nghiên cứu rất đa dạng về hải dương học, nhất là cùng với việc cấp học bổng hàng năm cho nhà nghiên cứu khoa học tại Massachusetts. Mặc khác, học viện nghiên cứu bao gồm chương trình phát triển tàu ngầm và một phòng thí nghiệm điều hòa hóa môi sinh cho kiến trúc thủy quân và hệ thống của nó. Về phần MIT Sea Grant Advisory Services, những nghiên cứu môi trường sinh thái biển, chất lượng nước, những thay đổi khí hậu, các cộng đồng và chính sách đánh bắt cá và đưa ra các chương trình giáo dục khoa học biển, cụ thể và đổi mới.
HỒ CÁ PARIS
Hồ cá Paris tiếp đón và cho phép thực hiện một vài cảnh quay của phim The Snorks.
Hồ cá Paris nằm ở vị trí cũ của Hồ Trocadero được xây năm 1878 cho Cuộc triển lãm Toàn cầu. Vào thời điểm đó là một hồ cá lớn nhất Châu Âu. Tiếp theo sau sự đóng cửa của hồ Trocadero năm 1985, vì thiếu tài trợ, phong cảnh đã hòan toàn được phục hồi lại. Hồ cá Paris mở cửa vào tháng 5 năm 2006, làm cho công chúng kinh ngạc khi phát hiện những loại cá khác nhau ở ven biển Pháp, của vùng biển Địa Trung hải và vùng nước nhiệt đới của lãnh thổ ngoại quốc.
OLIVIER LUKASZCZYK
Olivier Lukaszczyk phụ trách hậu kì phim The Snorks.
Ông là nghệ sỹ đa bộ môn, bước đầu làm việc với tư cách chuyên viên nghệ thuật in và họat hình cho phim hoạt hình, phát triển thông qua thực tiển phối cảnh.
Song song đó, ông ra ý tưởng môi trường âm thanh cho những cuộc triển lãm- La Verrière (Espace Vuiton) tại Bruxelles, Kagami tại Paris, Le Transpalette Centre d’Art Contemporain tại Bourges – ông soạn nhạc cho phim- Les Sept Saisons sur Cecile Bart- và đồng thực hiện phim video với những nghệ sỹ đương thời như Franck Scurti, Christian Robert Tissot và gần đây nhất là với Eric Duyckaerts tại Mac/Val.
Sự nghiệp của ông như FX Artist đã đưa ông đến việc làm phim dài như “despicable me” của Chris Renaud và Pierre Coffin, “Holly Motors của Leos Carax…
THOMAS BONNEAU
Thomas Bonneau is in charge of the sound-design and the audio mixing of the movie.
Thomas Bonneau is an audio engineer, sound designer and music composer.
Established in Paris, since 2006 he works with brands, production and postproduction companies, with music and multi-disciplinary artists on short or long-term projects.
Television, cinema, radio, albums, so many fields of activity that have their own rules and their own codes, that permit to diversify works, methods and objectives and so start each project with a brand new vision.
http://www.seeyousound.com/
MINSK STUDIO
Minsk studio đã phát triển phần nền của trang web và thiết kế sơ đồ quanh dự án The Snorks.
Minsk studio là một studio sáng tạo được lập tại Paris năm 2007 bởi Julie Dubos và Fahd El Jaoudi, tập trung làm nghệ thuật, thiết kế đồ họa, minh họa bằng tranh ảnh và nhiếp ảnh.
CLAUDINE COLIN
Văn phòng Claudine Colin đảm bảo truyền thông quanh dự án The Snorks. Văn phòng Truyền thông Claudine Colin, sáng lập năm 1990, chuyên về truyền thông sự kiện văn hóa quốc gia và toàn cầu. Mỗi người trong số họ phụ trách chiến lược truyền thong trong đó chúng tôi xem xét những công cụ mà mỗi người mang tới và những hành động thong tin liên lạc. Đối với mỗi buổi liên hoan, chúng tôi đưa vào sự giao tiếp tổng thể mà chúng tôi tinh tế hóa chúng so với văn hóa đương đại, xã hội hay chính trị một cách thỏa đáng. Chúng tôi suy nghĩ về những thứ mang lại cho chính dự án đó, về nội dung lẫn hình thức. Công việc của chúng tôi là đưa ra ý kiến giao tiếp vào đúng thời điểm, đúng nơi và đúng người.
NWMA
Trong khuôn khổ của phim, những thành viên của nhóm NWMA đã quay phim đợt cuối của Anti-Pop consortium tại Gaîté Lyrique.
NWMA là một tổ chức nghe nhìn đặt tại Paris, chuyện về âm nhạc, nghệ thuật và văn hóa thành thị.
PHÒNG TRANH PACE
Phòng tranh Pace giới thiệu công trình lao động của Loris Gréaud tại New York, Luân Đôn và Bắc Kinh. Phòng tranh Pace được sáng lập bởi Arne Glimcher tại Boston vào năm 1960. Ba năm sau, phòng trưng bày dọn trụ sở về New York, tại Midtown Manhattan. Đầu những năm 80, Pace được thành lập như một trong những nguồn nghệ thuật hiện đại và đương thời lớn nhất thành phố, về hội họa, điêu khắc, phim ảnh và bày trí. Nhiều năm trôi qua, phòng tranh đã phát triển và sát nhập những nghệ sĩ lớn thế giới cũng như những tác phẩm trọng đại của thế kỷ 20 và 21. Phòng tranh đã giới thiệu hơn 700 cuộc triễn lảm, gồm nhiều cuộc triển lãm lịch sử sau đó được trình bày tại các bảo tàng, xuất bản ra hơn 300 danh mục (ca-ta-lô) triển lãm.
YVON LAMBERT
Phòng tranh Yvon Lambert giới thiệu công trình lao động của Loris Gréaud tại Paris.
Từ hơn 45 năm, phòng tranh Yvon Lambert đóng vai trò giới thiệu và tài trợ cho các công trình lao động của những nghệ sỹ tân thời nhất của thời đại chúng ta. Thành lập năm 1966 bởi nhà buôn và nhà sưu tập Yvon Lambert, phòng tranh giới thiệu hàng năm những dự án của các nghệ sỹ đầy tham vọng, có năng lực và cách tân.
Từ đầu những năm 70, Yvon Lambert đã lựa chọn giới thiệu những nghệ sỹ Mỹ , những người tiên phong cho nghệ thuật tối giản, nghệ thuật ý niệm và Land Art, như Carl Andre, Robert Barry, Sol LeWitt, Richard Long, Brice Marden, Robert Ryman, Cy Twombly, Lawrence Weiner hay Jean Michel Basquiat, Niele Toroni(…)
Phòng tranh tồn tại mãi cho đến hôm nay như cam kết giới thiệu và hỗ trợ nghệ sỹ đi vào lịch sử như Douglas Gordon, Jenny Holzer, Joan Jonas, Anselm Kiefer, Bertrand Lavier, Roman Opalka, Andres Serrano, Niele Toroni, Lawrence Weiner (..) và chứng nhận những gặp gỡ nghệ thuật với một thế hệ nghệ sỹ mới như Mircea Cantor, Vincent Ganivet, Loris Gréaud, Shilpa Gupta, Koo Jeong-A hay là Nick Van Woert.